Bán phá giá là khái niệm tương đối quen thuộc trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đây lại là khái niệm được biết đến theo hướng khá tiêu cực và liên quan trực tiếp đến thị trường kinh doanh. Vậy trên thực tế bán phá giá là gì và làm thế nào để chống bán phá giá một cách hiệu quả nhất?
Đối với quan hệ thương mại quốc tế, bán phá giá là một hành vi của doanh nghiệp thuộc quốc gia này bán sang quốc gia khác với giá quá thấp nhằm giành giật thị trường xuất khẩu. Rõ ràng các mặt hàng khi nhập khẩu có giá thấp hơn và giá bán cũng thấp hơn cả giá thị trường thì người bị thiệt đầu tiên sẽ là các nhà sản xuất trong nước. Đó là lý do mà bán phá giá được đánh giá là hành vi cạnh tranh không công bằng, phải được ngăn chặn để đảm bảo tuyệt đối quyền lợi người kinh doanh cũng như người tiêu dùng.
Theo đó, Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch, Hiệp định chống bán phá giá của WTO đã cho phép các quốc gia thành viên được quyền đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước khi những ngành này bị thiệt hại thực sự từ hành vi bán phá giá của các đối tác nước ngoài.
Tại Việt Nam, Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã ban hành pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/10/2004 quy định các biện pháp cụ thể mà chính phủ Việt Nam có thể áp dụng khi có hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Pháp lệnh này căn bản tuân thủ các quy định tại Điều 6 Hiệp định GATT và Hiệp định chống phá giá của WTO.
Theo đó, hàng hóa có xuất xứ từ nước ngoài bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường. Trong trường hợp không có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước (vùng lãnh thổ) xuất khẩu hoặc có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu nhưng với khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa không đáng kể thì giá thông thường của hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo một trong hai cách sau:
Biên độ phá giá = (Giá thông thường - Giá xuất khẩu) / Giá xuất khẩu
Trong đó:
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
Theo nguyên tắc, mức thuế chống bán phá giá sẽ được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên phá giá của họ.
Trong trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được lựa chọn để tham gia cuộc điều tra thì mức thuế chống bán phá giá áp dụng cho họ sẽ không cao hơn biên phá giá trung bình của tất cả các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra.
Thời gian áp thuế theo quy định WTO, việc áp thuế chống bán phá giá không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại. Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với tất cả hàng hóa liên quan đến nhập khẩu từ nước bị kiện sau thời điểm ban hành quyết định.
Quyết định áp thuế có hiệu lực với cả các nhà xuất khẩu mới, người chưa hề xuất khẩu hàng hoá đó sang nước áp thuế trong thời gian trước đó; nhà xuất khẩu mới có thể yêu cầu cơ quan điều tra tính mức thuế riêng cho mình, nhưng trong thời gian chưa có quyết định về mức thuế riêng thì hàng hoá nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới vẫn thực hiện.
Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hóa, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ nhưng khi áp dụng thì họ phải đảm bảo tuân thủ các quy định của WTO về điều kiện, thủ tục cũng như cách thức áp dụng biện pháp tự vệ.
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
1. Bán phá giá là gì?
Bán phá giá thực tế là một khái niệm cơ bản để chỉ việc các sản phẩm được bán ở một thị trường với giá bán ở dưới mức giá thành sản xuất. Bán phá giá thường được thể hiện qua nhiều cách khác nhau để hạ giá, tăng khả năng cạnh tranh, đánh bại đối thủ và chiếm lĩnh thị trường ngay cả khi phải chấp nhận bán lỗ ở một mức nào đó. Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, hành vi bán phá giá được xem là bất hợp pháp.Đối với quan hệ thương mại quốc tế, bán phá giá là một hành vi của doanh nghiệp thuộc quốc gia này bán sang quốc gia khác với giá quá thấp nhằm giành giật thị trường xuất khẩu. Rõ ràng các mặt hàng khi nhập khẩu có giá thấp hơn và giá bán cũng thấp hơn cả giá thị trường thì người bị thiệt đầu tiên sẽ là các nhà sản xuất trong nước. Đó là lý do mà bán phá giá được đánh giá là hành vi cạnh tranh không công bằng, phải được ngăn chặn để đảm bảo tuyệt đối quyền lợi người kinh doanh cũng như người tiêu dùng.
Theo đó, Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch, Hiệp định chống bán phá giá của WTO đã cho phép các quốc gia thành viên được quyền đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước khi những ngành này bị thiệt hại thực sự từ hành vi bán phá giá của các đối tác nước ngoài.
Tại Việt Nam, Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã ban hành pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/10/2004 quy định các biện pháp cụ thể mà chính phủ Việt Nam có thể áp dụng khi có hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Pháp lệnh này căn bản tuân thủ các quy định tại Điều 6 Hiệp định GATT và Hiệp định chống phá giá của WTO.
Theo đó, hàng hóa có xuất xứ từ nước ngoài bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường. Trong trường hợp không có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước (vùng lãnh thổ) xuất khẩu hoặc có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu nhưng với khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa không đáng kể thì giá thông thường của hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo một trong hai cách sau:
- Giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự của nước (vùng lãnh thổ) xuất khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường.
- Giá thành hợp lý của hàng hóa cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận ở mức hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị trường của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ 3.
2. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Trên thực tế, không phải cứ có hiện tượng hàng hóa nước ngoài bán phá giá là nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa đó mà theo quy định của WTO thì việc áp dụng chống bán phá giá chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu sau khi đã tiến hành chống bán phá giá, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 3 điều kiện sau:- Hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá với biên độ phá giá không thấp hơn 2%
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước
- Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên
Biên độ phá giá = (Giá thông thường - Giá xuất khẩu) / Giá xuất khẩu
Trong đó:
- Giá thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất khẩu hoặc giá bán của sản phẩm tương tự từ nước xuất khẩu sang một nước thứ ba; hoặc giá xây dựng từ tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí quản lý bán hàng và khoản lợi nhuận hợp lý – WTO có quy định cụ thể các điều kiện để áp dụng từng phương pháp này);
- Giá xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu (hoặc giá bán cho người mua độc lập đầu tiên)
3. Ai được quyền kiện chống bán phá giá?
Một vụ kiện chống bán phá giá chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu bởi các chủ thể có quyền khởi kiện là ngành sản xuất sản phẩm tương ứng của nước nhập khẩu (hoặc đại diện của ngành); hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu. Hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế đều được khởi xướng từ đơn kiện của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu.Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
- Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự chiến ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện
- Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất 25% tổng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong nước.
4. Làm thế nào để chống bán phá giá?
Biện pháp chống bán phá giá được hiểu là các biện pháp mà nước nhập khẩu có thể sử dụng để chống lại hiện tượng bán phá giá của hàng nhập khẩu sau khi có kết luận khẳng định việc bán phá giá gây thiệt hại đáng kể. Sau đây, cùng GoAcademy tìm hiểu các cách để hạn chế các hành động bán phá giá hiệu quả như:4.1 Áp dụng thuế để chống bán phá giá
Chống bán phá giá bằng thuế chống bán phá giá được xem là một trong những giải pháp được sử dụng rộng rãi để chống bán phá giá một cách hiệu quả. Phương pháp này được áp dụng với tất cả các sản phẩm bị điều tra cũng như bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó.Theo nguyên tắc, mức thuế chống bán phá giá sẽ được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên phá giá của họ.
Trong trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được lựa chọn để tham gia cuộc điều tra thì mức thuế chống bán phá giá áp dụng cho họ sẽ không cao hơn biên phá giá trung bình của tất cả các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra.
Thời gian áp thuế theo quy định WTO, việc áp thuế chống bán phá giá không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại. Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với tất cả hàng hóa liên quan đến nhập khẩu từ nước bị kiện sau thời điểm ban hành quyết định.
Quyết định áp thuế có hiệu lực với cả các nhà xuất khẩu mới, người chưa hề xuất khẩu hàng hoá đó sang nước áp thuế trong thời gian trước đó; nhà xuất khẩu mới có thể yêu cầu cơ quan điều tra tính mức thuế riêng cho mình, nhưng trong thời gian chưa có quyết định về mức thuế riêng thì hàng hoá nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới vẫn thực hiện.
4.2 Biện pháp tự vệ
Biện pháp này được hiểu là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hóa khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiệm trọng đối với ngành sản xuất trong nước.Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hóa, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ nhưng khi áp dụng thì họ phải đảm bảo tuân thủ các quy định của WTO về điều kiện, thủ tục cũng như cách thức áp dụng biện pháp tự vệ.
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
- Hàng hóa liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa đó bị thiệt hại hoặc đe dọa bị thiệt hại nghiêm trọng
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nói trên
Chỉnh sửa lần cuối: